Khóc than khôn xiết sự tình
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
Thúy Kiều với Kim Trọng ngày đầu gặp gỡ:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
64 chữ Duyên trong Truyện Kiều
- Khóc than khôn xiết sự tình
- Đã không duyên trước chăng mà
- Thì chi chút ước gọi là duyên sau
- Người đâu gặp gỡ làm chi
- Âu đành quả kiếp nhân duyên
- Hoa trôi bèo dạt đã đành
- Ví chăng duyên nợ ba sinh
- Mừng thầm chốn ấy chữ bài
- Gẫm âu người ấy, báu này
- Sinh rằng giải cấu là duyên
- Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
12, 13 Mái tây để lạnh hương nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng
Sự đâu chưa kịp đôi hồi
- Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ
- Duyên hội ngộ, đức cù lao
- Đau lòng tử biệt sinh ly
- Biết bao duyên nợ thề bồi
- Rằng lòng đương thổn thức đầy
- Chiếc thoa với bức tờ mây
- Trăm nghìn gửi lại tình quân
- Này cha làm lỗi duyên mày
- Lầu xanh có mụ Tú Bà
- Rủi may âu cũng sự trời
- Giận duyên, tủi phận bời bời
- Nào hay chưa hết trần duyên
- Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa
- Lời tan hợp, nỗi hàn huyên
- Sắn bìm chút phận con con
- Hỡi ơi nói hết sự duyên
- Nhẹ như bấc, nặng như chì
- Bể trần chìm mỗi thuyền quyên
- Nhân duyên đâu lại còn mong
- Cho hay giọt nước cành dương
- Trót vì cầm đã bén dây
- Hư không đặt để nên lời
Mụ càng xua đuổi cho liền
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần
- Trước sân lòng đã giãi lòng
- Trai anh hùng, gái thuyền quyên
- Duyên em dù nối chỉ hồng
- Cười rằng cá nước duyên ưa
- Còn nhiêu ân ái với nhau
- Duyên đâu ai dứt tơ đào
- Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
- Sư rằng song chẳng hề chi
- Khi nên Trời cũng chiều người
- Trước sau cho vẹn một lời
- Còn nhiều hưởng thụ về sau
- Nạn xưa trút sạch làu làu
47, 48 Kiếp này duyên đã phụ duyên
Dạ đài còn biết, sẽ đền lai sinh
- Vội vàng sắm sửa chọn ngày
- Khi ăn ở, lúc ra vào
- Tình xưa, ân trả, nghĩa đền
- Phong trần chịu đã ê chề
- Gặp nàng khi ở Châu Thai
- Nàng Kiều công cả chẳng đền
- Cơ duyên đâu bỗng lạ sao
- Gặp cơn bình địa ba đào
- Cũng là phận cải duyên kim
- Còn duyên may lại còn người
- Duyên kia có phụ chi tình
- Nàng rằng gia thất duyên hài
- Động phòng dìu dặt chén mồi
- Tình duyên ấy, hợp tan này
63, 64 Ba sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.
Hoặc câu ca dao châm chích
Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên ếch đực, cua kềnh cũng vơ.
Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
Chữ duyên trong thơ Hồ Xuân Hương
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
Câu thơ được đúc kết và lưu truyền nhiều đời như điều hiển nhiên của cuộc đời này. Con người sống trên nhân gian dường như được an bài sẵn và đến một thời điểm nhất định nào sẽ ai, sự tình gì đều đã được định sẵn. Có duyên với nhau thì dù cách xa nghìn dặm cũng có thể gặp nhau, không có duyên với nhau thì đối diện cũng cảm thấy xa cách.
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
Duyên trong tiếng Việt còn có nghĩa một sự định giá, đánh giá:
Một thương ăn nói có duyên
Người xấu duyên lặn vào trong, bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài
Và khi con người có cách cư xử , nhận thức kém cỏi , ăn nói kệch cỡm …vv sẽ bị chê là vô duyên ;
Người bị kết luận ᴠô duуên một phần là do họ không ᴄó được năng lựᴄ tự nhận thứᴄ ᴠề hành ᴠi cũng như ᴄáᴄh ᴄư хử ᴄủa họ trong lời ăn, tiếng nói, hành động đối ᴠới người đối diện. Có một ѕự thật mà tất ᴄả ᴄhúng ta đều sẽ phải thừa nhận rằng đó là ᴄhúng ta thường không biết những gì mình không biết.
Đối ᴠới một ѕố người, chính bản thân họ cũng không hề nhận thứᴄ đượᴄ chính những hành động ᴄủa họ là rất ᴠô duуên ᴄho nên họ mới tiếp diễn những hành động như ᴠậу về sau.
Chữ Duyên trong Phật Giáo
Một số nét nghĩa chính của chữ Duyên từ triết lý Phật giáo đến đời sống người Việt
Chữ Duyên (hàm nghĩa là duyên khởi, duyên sinh, nhân duyên) trong tiếng Sanskrit là pratītyasamutpāda, tiếng Pali là paṭiccasamuppāda, ngữ liệu chữ Hán là 縁起. Nguyên gốc từ Duyên bắt nguồn từ chữ Sanskrit paccaya (p. pati) có hàm nghĩa vô cùng rộng lớn: chuyển động, nương nhờ, nâng đỡ, nguyên do, nền tảng của mọi sinh tồn và chuyển hóa.
Theo Phạm Hữu Dung, cụm từ tiếng Anh tương đương với khái niệm Duyên là The conditionality of all physical and psychical phenomena (twelve factors), có nghĩa là các điều kiện của mọi hiện tượng tự nhiên và siêu nhiên. Trần Nghĩa Phương dịch: Conditional causation, nghĩa là quan hệ nhân quả do các điều kiện (hợp lại, quy định nhau) mà tạo thành. Thích Trí Chơn trong cuốn Phật giáo yếu lược thì chuyển nguyên văn của Narada Thera là: dependent origination, dependent arising, hay conditioned arising, nghĩa là “sự phát khởi mang tính tùy thuộc, tính điều kiện”.
1. Chưa quen nhau nay được gặp nhau gọi là HỮU DUYÊN.
2. Muốn làm một việc gì đó giúp người khác biết về Phật pháp gọi là KẾT DUYÊN.
3. Hay ấn tống kinh sách, máy giảng pháp cho người khác nghe gọi là GIEO DUYÊN.
4. Những gì đã đến và chưa đến với mình gọi là NHÂN DUYÊN.
5. Mình thường hay làm những việc thiện giúp đỡ mọi người gọi là THIỆN DUYÊN.
6. Mình thường hay làm những điều xấu ác hại người gọi là ÁC DUYÊN.
7. Mình làm việc gì cũng gặp phải sự trắc trở trái ý mình gọi là NGHỊCH DUYÊN.
8. Mình làm việc gì cũng đúng với ý mình gọi là THUẬN DUYÊN.
9. Mình thường hay mắc phải những tật xấu gọi là NGHIỆP DUYÊN.
10. Có những việc mình chưa biết có làm được hay không được gọi là TÙY DUYÊN.
11. Trong cuộc sống luôn có những điều tốt đẹp may mắn đến với mình gọi là PHƯỚC DUYÊN.
12. Có những điều tốt đẹp đến với mình hơn cả những gì mình mong đợi gọi là THẮNG DUYÊN.
Đủ nắng hoa sẽ nở
Đủ duyên ắt sẽ gặp
Đủ phước ắt sẽ hưởng