Om Ah Bira Khe Chara Hum (x7)
Đọc:
Om A Bi Ra Khê Cha Ra Hum.
(Tài liệu từ Lama Zopa Rinpoche)
Trì tụng rồi thổi lên thịt trước khi ăn. Nó sẽ tịnh hóa thịt và đem lại sự giải thoát cho chúng sinh.
|
Thần chú ban phước cho thịt, tịnh hóa tâm hồn trước khi ăn thức ăn có nguồn gốc động vật.10/26/2023 Chúng ta ăn chay vì sự thanh tịnh của bản thân và vì thương yêu muôn loài chúng sinh , loài động vật trên quả đất này.Do vậy khi ăn thịt cá hoặc ăn các loại thức ăn có nguồn gốc động vật chúng ta nên trì câu thần chú này để tịnh hóa tâm hồn trước khi ăn và cũng để cho con vật mình đang ăn sẽ được đến cõi lành.
Om Ah Bira Khe Chara Hum (x7) Đọc: Om A Bi Ra Khê Cha Ra Hum. (Tài liệu từ Lama Zopa Rinpoche) Trì tụng rồi thổi lên thịt trước khi ăn. Nó sẽ tịnh hóa thịt và đem lại sự giải thoát cho chúng sinh.
0 Comments
Mấy năm trước đây chúng tôi đi dự một pháp hội và được thầy tặng cho 2 câu thần chú này. Chúng tôi chẳng hiểu và cũng chẳng biết làm gì với các câu thần chú này . Chỉ biết nhốt kín chúng nó trong một quyển kinh. Bỗng nhiên hôm nay mở thần chú ra thấy linh ứng ghê. Ngọc sẵn trong nhà thôi tìm kiếm NỮ THẦN TARA LAMA SURYA DAS Trích: Sư Tử Tuyết Bờm Xanh-Truyện cổ dịch; Nguyễn Tường Bách dịch. —–—– TẠI GIÁC THÀNH, là nơi Phật Thích Ca thành đạo, có một Tăng sĩ. Vị Tăng sĩ đó có một thành kiến với Đại thừa Phật giáo, vị ấy xem Đại thừa là một cái gì trừu tượng. Vị ấy hay giảng giải với các người nghe rằng, Đại thừa hay nói quá nhiều đến vị đại sư đắc đạo, các vị thánh, các vị hộ pháp…, đến nỗi mất luôn sự tin tưởng. Vị ấy chủ trương theo Tiểu thừa, khuyên người đời nên từ bỏ hệ thống Đại thừa quá mênh mông, chỉ làm người ta mất phương hướng. Nhưng mọi người đều nghĩ, quan điểm nào cũng phải được thử thách và quan điểm của vị ấy cũng thế. Một ngày nọ, lúc tắm tại sông Ni-liên-thuyền, vị ấy bị nước cuốn trôi. Vị ấy chới với giữa dòng không biết làm sao thì trong đầu bỗng nhớ đến một vị nữ thần trong Đại thừa là Tara. Trồi lên ngụp xuống trong dòng nước, vị ấy chỉ còn biết kêu cứu Tara. Đến lúc hầu như tuyệt vọng thì vị ấy bỗng thấy một tượng gỗ chiên đàn khổng lồ trôi bên cạnh. Tượng này vị ấy đã nhiều lần trông thấy và cũng đã hít thở mùi thơm của gỗ chiên đàn. Tượng biểu trưng thần Tara như là người cứu giúp các tâm hồn đang trôi dạt trong biển cả của ảo giác. Vị tu sĩ này biết rõ như thế vì chính ông là người cũng từng chê cười quan điểm bức tượng. Bấy giờ vị tu sĩ ôm chặt bức tượng và giữ đầu được cao trên mặt nước để rồi dòng sông xua dạt ông vào một bờ yên tĩnh. Cả vài tiếng đồng hồ sau vị tu sĩ vẫn còn nằm nơi đó. Sông Ni-liên-thuyền đã kéo rách mất chiếc y vàng. Lõa thân và run lẩy bẩy, người tu sĩ Tiểu thừa ôm chặt bức tượng gỗ thần Tara như một đứa trẻ con ôm mẹ. Tất nhiên sau đó người tu sĩ bênh vực cho quan điểm Đại thừa, trong đó mọi mức độ tâm linh đều được coi trọng, kể cả mức tin tưởng nơi sức cứu độ của tượng thần linh. Nữ thần Tara, có bảy mắt (hai mắt thường, mắt trí huệ giữa trán, bốn mắt ở tay chân), tay trái cầm hoa sen, tay mặt bắt ấn cứu độ —–—– Bất Động Minh Vương (tiếng Phạn: Acala-vidyārāja hoặc Acalanatha) là một vị thần có hình dạng hung tợn và liên quan đến Đại Nhật Như Lai (Vairocana Tathagata). Tên gọi khác của Ngài là Bất Động Kim Cang Minh Vương, Bất Động Tôn, Vô Động Tôn, Vô Động Tôn Bồ Tát, mật hiệu là Thường Trụ Kim Cang. Bất Động Minh Vương thường được bao quanh bởi ngọn lửa, vẻ mặt hung tợn, thân người được sơn màu xanh đen, da cam hoặc đỏ tươi ngay cả trong các bức tượng bằng đá. Điều này tượng trưng cho việc đốt cháy ham muốn và sân hận để thanh lọc tâm trí. Quyển sách của tác giả Lý Cư Minh về pháp tu Bất Động Minh Vương Ngài có 2 cái răng nanh, tay trái cầm sợi dây dùng để bắt quỷ thần và tay phải cầm thanh gươm Kurikara. Nó cũng được sử dụng để cắt đứt sự thiếu hiểu biết, tham ái và hận thù. Ngoài ra, Ngài còn có 2 người phục vụ là Seitaka Doji và Kongara Doji. Ngài thường được miêu tả như một sứ giả, nhưng nhiệm vụ chính của Ngài trong Đại Nhật Kinh (Mahāvairocana Sutra) là một người tiêu trừ những trở ngại khiến một người không nhận ra bản chất tốt lành tiềm ẩn bên trong. Một số trường phái Phật giáo thường xuyên thực hành tụng niệm thần chú Bất Động Minh Vương để thanh lọc tâm trí. Lợi ích khi tụng niệm thần chú Bất Động Minh Vương Thần chú Bất Động Minh Vương được trì tụng như sau: Namo Samanto Vajra Nai Ham hoặc Namah Samantavajranam Canda Maharosana Sphotaya Hum Trat Ham Mam Thần chú Bất Động Minh Vương được xem là loại thần chú có mị lực vô cùng mạnh mẽ. Câu thần chú giúp chúng ta loại bỏ được những cảm xúc tiêu cực, cắt đứt mọi trở ngại khiến chúng ta không thể nhận ra con đường giác ngộ. Đặc biệt, những người không làm chủ được bản thân khi niệm thần chú Bất Động Minh Vương sẽ lấy lại được bình tĩnh, sáng suốt hơn.
Diệu Cát Tường Bồ-tát! Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào luôn luôn chí thành và mong cầu diệu Pháp, thì ông hãy dạy họ Pháp môn này. Ông hãy lắng nghe. Ta bây giờ sẽ tuyên thuyết 108 mẫu tự của Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai Tổng Trì. Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tá ra tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp. Án, tát rị ba, tang tu cát rị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngỏa, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt. OṂ NAMO (Quy mệnh kính lễ) BHAGAVATE (Thế Tôn) APARAMITA AJURJÑĀNA (Vô Lượng Thọ Trí) SUVINE ŚCITA TEJA (Quyết Định Quang Minh) RĀJĀYA (Vương) TATHĀGATĀYA (Như Lai) ARHATE (Ứng Cúng) SAMYAKSAṂBUDDHĀYA (Chính Đẳng Chính Giác) TADYATHĀ (Như vậy, liền nói Chú là) OṂ (Ba Thân quy mệnh ) SARVA SAṂSKĀRA (Tất cả hoạt động của Tâm Trí) PARIŚUDDHA (Tối thượng thanh tịnh) DHARMATE (bên trong Pháp Tính) GAGANA (Hư không) SAMUDGATE (Thắng thượng) SVABHĀVA (Tự Tính) VIŚUDDHE (Thanh tịnh) MAHĀ-NAYA (Rộng lớn bao la) PARIVĀRE (Thắng Nguyện) SVĀHĀ (Thành tựu Tự Tính an lạc của Đại Niết Bàn) Toàn bài Đà La Ni trên có thể diễn dịch là : “Quy mệnh kính lễ Đức Thế Tôn Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác. Nam mô Phật đà gia, nam mô đạt ma da, nam mô tăng già da. Nam mô Quán tự tại bồ tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. Đát điệt tha: Án chước yết ra, phạt để, chấn đa mạt ni, ma ha bát đằng mế, rô rô (rô rô), để sắt tra, thước la, a yết rị sa dạ, hồng, phấn, toá ha. Án bát đạp ma, chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án bát lặc bà, bát đẳng mế hồng. Namo Buddhaya, namo Dharmaya, namo Sanghaya. Namo Avalokitesvaraya bodhisattvaya mahasattvaya, maha karunikaya. Tadyatha: OM CHAKRA, VARTTI, CINTAMANI, MAHA PADMA, RURU, TISTA, JVALA AKARSAYA, HUM, PHAT, SVAHA. OM PADMA, CINTAMANI, JVALA HUM. OM VARADA, PADME HUM. Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Tâm Đà La Ni Công Đức Bảo Sơn Thần Chú còn có tên gọi khác là “Công Đức Bửu Sơn Thần Chú”. Đây là một bài chú ngắn trong Thập chú, thuộc trợ hạnh trong công phu của Thiền Môn. Oai lực của chú này được mô tả là vô tiền khoáng hậu. Nam Mô Phật Ðà Da Nam Mô Ðạt Ma Da. Nam Mô Tăng Dà Da. Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha”. Nghe như vầy: Một thời Đức Phật ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc trong nước Xá Vệ cùng với chúng Đại Tỳ Kheo gồm 1250 người , Bồ Tát gồm một vạn người đến dự Bấy giờ, từ cõi Phật này, vượt qua một ức trăm ngàn cõi Phật, có Thế Giới tên là Vô Lượng Hoa, Đức Phật của cõi ấy có hiệu là Đặng Tôn Vương Như Lai Vô Sở Trước Chí Chân Đẳng Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Đức Phật ấy sai hai vị Bồ Tát, vị thứ nhất tên là Vô Lượng Quang Minh, vị thứ hai tên là Đại Quang Minh. Khi hai vị Bồ Tát đến nơi Đức Thích Ca Văn Phật ngự thời cúi lạy bàn chân của Đức Phật, lui về trụ một bên rồi đến trước mặt Đức Phật bạch rằng:”Kính bạch Đức Thế Tôn ! Từ cõi Phật này, vượt qua một ức trăm ngàn cõi Phật, có Thế Giới tên là Vô Lượng Hoa, Đức Phật của cõi ấy có hiệu là Đặng Tôn Vương Như Lai sai chúng con đến hỏi thăm Đức Thế Tôn có được như thường chăng ? Các Chúng có an ổn chăng ? Không có gì khác ư ? Do muốn được Trời, Rồng, Quỷ đói, Nữ Quỷ, Cưu Hoàn hoặc Người, Phi Nhân, cọp, sói, thú độc… không gây nhiễu loạn người dân. Vì thương xót chúng sinh, nên Đức Phật ấy sai đem Chú Trì Cú này đến khiến cho họ được an vui, tốt lành, nổi tiếng, được sức uy thần. Như vậy: Xà lê, ma ha xà lê, la ni, ưu khư, mục khư, sa ba đề, ma ha sa ba đề 凹改卡 砃共 涗扣砃共 砃娮仗 淐珋 觜珋 屹囧柼 涗扣屹囧柼 TADYATHAØ : ‘SARI MAHA-‘SARI _ ’SARANÏI _ UKHA MUKHA _ SAM-PATTI MAHA-SAM-PATTI Đức Phật bảo A Nan :”Thọ nhận chú Trì Cú đó , gìn giữ , tụng nói. Đức Phật ra đời đã khó gặp thì chú Trì Cú cũng rất khó gặp. Kẻ trai lành, người nữ thiện thọ nhận chú Trì Cú đó , phúng tụng, đọc sẽ biết được Túc Mệnh trong bảy đời. Người thọ trì thời tất cả Phù Đà (Bhùta_Ác Sinh Quỷ), Quỷ Thần hoặc Người, Phi Nhân chẳng thể đến gần để gây nhiễu loạn. Rắn độc chẳng dám cắn. Thuốc độc tự nhiên bị trừ khử. Đao cũng chẳng thể gây thương tích. Vua cũng chẳng thể hại. Phạm Thiên cũng chẳng nổi sân. Chú Trì Cú đó là điều mà 77 ức Phật đã nói, người phạm vào Chú đó sẽ bị tội nặng” Lại có 80 người của nhóm Bồ Tát Di Lặc bảo Hiền Giả A Nan rằng:”Tôi cũng sẽ nói chú Trì Cú , vì thương xót chúng sinh khiến cho họ an vui, tốt lành, nổi tiếng, được sức uy thần Như vậy: A tri, hòa tri, tra khư la, la lý di, hỷ lợi, di lợi 凹改卡 唒廿 郇廿 盄珋娮 栯印亦 帆印 亦印 凸冰 冰亦刑 TADYATHAØ: ATÏI HATÏI TÏAKHARA LALIMI SILI MILI TIRU RUMIRE Đức Phật bảo A Nan :”Thọ nhận chú Trì Cú đó , gìn giữ , tụng nói. Đức Phật ra đời đã khó gặp. Phúng tụng, đọc chú Trì Cú, sẽ biết được Túc Mệnh trong 14 đời. Người thọ trì thời tất cả Phù Đà (Bhùta_Ác Sinh Quỷ), Quỷ Thần hoặc Người, Phi Nhân chẳng thể đến gần để gây nhiễu loạn. Rắn độc chẳng dám cắn. Thuốc độc tự nhiên bị trừ khử. Đao cũng chẳng thể gây thương tích. Vua cũng chẳng thể hại. Phạm Thiên cũng chẳng nổi sân. Chú Trì Cú đó là điều mà 84 ức Phật đã nói, người chê bai Chú đó sẽ bị tội nặng. Đức Phật bảo:”Này A Nan ! Ta cũng sẽ nói chú Trì Cú , vì thương xót chúng sinh khiến cho họ an vui, tốt lành, nổi tiếng, được sức uy thần Như vậy: A tri, hòa tri, na tri, cưu na tri, đề lê sa la ba đề, a na ba đề, ba na đề ba na, ca hòa tri, ma ha ca hòa tri 凹改卡 唒廿 郇廿 乃傛廿 注州娮扔凸 唒傛扔凸 渨凸矛傛 烿喣市 涗扣烿喣市 TADYATHA: ATÏI HATÏI KUNATÏI _ TRISARA-PATI _ ANAPATI _ PRATIBHANA _ KAHANI MAHA-KAHANI Đức Phật bảo A Nan :”Thọ nhận chú Trì Cú đó , gìn giữ , tụng nói. Đức Phật ra đời đã khó gặp thì chú Trì Cú cũng rất khó gặp. Kẻ trai lành, người nữ thiện thọ nhận chú Trì Cú đó , phúng tụng, đọc sẽ biết được Túc Mệnh trong vô số đời. Người thọ trì thời tất cả Phù Đà (Bhùta_Ác Sinh Quỷ), Quỷ Thần hoặc Người, Phi Nhân chẳng thể đến gần để gây nhiễu loạn. Rắn độc chẳng dám cắn. Thuốc độc tự nhiên bị trừ khử. Đao cũng chẳng thể gây thương tích. Vua cũng chẳng dám hại. Phạm Thiên cũng chẳng nổi sân. Chú Trì Cú đó là điều mà vô số ức Phật đã nói, người phạm vào Chú đó sẽ bị tội nặng” Đức Phật bảo:”Này A Nan ! Chú Trì Cú đó, nên niệm trong lúc đi đường. Hoặc đến huyện quan, hoặc trong đường đi gặp giặc cướp, hoặc trúng Cổ Đạo, hoặc trúng độc, hoặc trúng đao nhọn, hoặc trong loài Người, Phi Nhân… thì cần phải niệm tụng. Chú Trì Cú đó còn khiến cho cây khô sinh lá, hoa, quả huống chi vì người mà kết sợi dây sẽ khiến cho trăm bệnh tiêu trừ, tự nhiên an ổn, tịch trừ hung hại” Nam mô Phật khiến cho Chú đều được theo Nguyện Đức Phật nói Kinh xong, thời tất cả đều rất vui vẻ. Chú Kim Cang Tát Đỏa Sáu Âm ༄༅། ། OM VAJRA SATTVA HUNG [Ôm Ben Dza Xa-tô Hung] hay (phát âm Tây tạng) OM BENZA SATO HUNG, [Ôm Vai-Ra Xát-Va Hung] Chú Kim Cang Tát Đỏa Trăm Âm OM BENZA SATO SAMAYA MANUPALAYA, BENZA SATO TVENOPATISTHA DRIDO ME BHAVA, SUTOSYO ME BHAVA, SUPOSYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVASIDDHIM ME PRAYACCHA, SARVAKARMASU CA ME CITTAM SRIYAH KURU HUNG, HA HA HA HA HOH, BHAGAVAN, SARVA TATHAGATA, BENZA MA ME MUNCA, BENZI BHAVA, MAHA SAMAYA SATO, AH HUNG PAY |
Categories |