7 Kỳ Quan Thế Giới Cổ Đại
Hầu hết mọi người đều biết danh sách của kỳ quan thế giới nhưng chỉ một vài cái được đặt tên cho chúng . Danh sách của the Seven Wonders đã được bắt đaû` hoàn thành trong khoảng thế kỷ thứ 2 trước công nguyên . Cuộc xem xét cho ý kiến này đúợc tìm thấy tại History of Herodotus một thời gian dài trước đây khoảng thế kỷ thứ 5 truơc´công nguyên .Vài chục thế kỷ sau những nhà sử học Hy Lạp đã viết về những công trình vĩ đại này . Callimachus of Cyrene (305BC-240BC) người thư viện trưởng của triều đại Alexandria Mouseion ,đã viết " Bộ sưu tập những kỳ quan thế giới " Tất cả chúng ta đều biết tên của chủ đề này là đã bị phá huỷ cùng với thư viện Alexandria.
Danh sách cuối cùng của bảy kỳ quan thế giới được hoàn thành vào thời trung cổ . Nó bao gồm bảy công trình hùng vĩ nhất của thế giới cổ xưa một vài công trình đó
còn tồn tại rỏ ràng cho đến thời trung cổ .Một số khác đã không còn hiện diện nữa .
Những bản thảo cổ nhất cho danh sách là sự hợp tác của hoạ sĩ Hà lan Maerten van Heemskerck (1498-1574) và Johann Fischer von Erlach´s History of Architecture.
Ngày nay là những cuộc khám phá tìm bằng chứng cổ cho những điều bí ẩn về lịch sử kỳ quan của thế kỷ đó .Cho họ những người xây dựng Bảy Kỳ quan thế giới là ca tụng tôn giáo dựa theo thần thoại , nghệ thuật , sức mạnh và khoa học . Cho chúng ta Kỳ quan thế phản ánh tài năng còn mãi của những con ngươi` thay đoî cảnh quang bằng những công trình kiến trúc tuyệt mỹ . Một trong những số đó chống chọi với thời gian mỗi ngày .
1 Kim Tự Tháp Giza
Nằm tại Giza, nghĩa trang Memphis, ngày nay la `một phần Greater Cairo, Egypt.
Man fears Time, yet Time fears the Pyramids
Arab proverb
Khi đến gần những công trình đồ sộ này, hình dáng góc cạnh và độ nghiêng của chúng làm tan biến dáng vẻ về độ cao và đánh lừa đôi mắt… nhưng ngay khi bắt đầu đo những sản phẩm mỹ thuật khổng lồ bằng thước tỷ lệ quen thuộc, chúng lại phục hồi tất cả vẻ bao la của mình.
Trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, chỉ có các Kim tự tháp Giza là còn tồn tại. Mặc dù đã bị mất đi rất nhiều lớp vỏ bọc bằng đá vôi trắng, cùng các đền thờ bao quanh đã bị đổ nát, nhưng chính kích thước của những công trình hùng vĩ này vẫn khiến du khách phải sửng sốt. Công trình vươn lên như một trong số những thành tựu đáng ngạc nhiên nhất trong lịch sử, nhưng thậm chí ngay cả hiện nay các phương pháp được những thợ xây cổ đại áp dụng vẫn còn là vấn đề nhiều tranh cãi.
Thực tế có hơn 80 Kim tự tháp ở Ai Cập, được xây dựng trong khoảng thời gian hơn 100 năm, nhưng các Kim tự tháp ở Giza là lớn nhất và được bảo quản tốt nhất nhờ vào tính chắc chắn của công trình. Kim tự tháp Giza do ba vị vua thuộc vương triều thứ tư xây dựng: Khufu (còn gọi là Cheops), Khafre (Chephren) và Menkaure (Mycerinus). Kim tự tháp Khufu (khoảng 2551-228 tr.CN) lớn nhất và còn được gọi là Kim tự tháp lớn. Với hơn 4.000 năm tuổi, đây là công trình được xây dựng cao nhất trên thế giới.
Ý nghĩa
Các kim tự tháp Ai Cập thuộc Cổ hay Trung vương triều đều là thượng tầng kiến trúc của các lăng mộ hoàng gia. Sự chắc chắn và đồ sộ của công trình nhằm mục đích bảo vệ thi hài của nhà vua, nhưng việc chọn lựa hình dáng kim tự tháp phải có sự nghiên cứu biểu tượng đáng kể. Kim tự tháp nhằm mục đích giúp nhà vua thăng thiên, hình dáng thường được giải thích như một đoạn đường dốc hướng lên bầu trời. Kim tự tháp cũng liên kết với các gò đất nguyên thủy hình thành do sự xáo trộn các khối nước vào thời điểm xây dựng. Ngoài ra, hình dáng kim tự tháp có thể là biểu tượng mặt trời, tượng trưng cho các tia nắng mặt trời chiếu chếch ở dạng rắn nổi lên, đôi khi nhìn thấy tia nắng chiếu xuyên qua mây. Dù sự giải thích hình dáng như thế nào, điều rõ ràng là người Ai Cập đã cố gắng xây dựng công trình cao nhất có thể, một khối lượng lớn gồm công trình bằng đá xây dựng theo hình kim tự tháp có lẽ là phương pháp thành công nhất để đạt đến ước vọng này.
Bản thân kim tự tháp chỉ là một bộ phận trong tổ hợp chôn cất hoàng gia. Mỗi kim tự tháp đều tọa lạc trong một vùng đất, bao quanh là khu đền tang lễ nằm ở cạnh phía Tây, cũng có một ngôi đền trong thung lũng gần con sông nối liền với ngôi đền phía thượng lưu bằng bờ đất đắp cao chạy dài trang trí bằng những tác phẩm chạm nổi. Bờ đất đắp cao ở kim tự tháp Khufu vẫn còn khi Herodotus tham quan Giza vào thế kỷ 5 tr.CN. Theo ông quan sát, hầu hết các trang trí chạm trổ trên các vách đều gây ấn tượng cũng như chính bản thân kim tự tháp.
Mặt bằng bố cục và chuẩn bị địa điểm xây dựng
Điều quan trọng là phải chọn địa điểm xây dựng thích hợp. Vùng cao nguyên Giza được chọn do vị trí tầm nhìn bao quát hướng về thung lũng sông Nile và nằm ở bờ Tây - phía Tây thường đi đôi với mặt trời lặn và cái chết. Ngoài ra, dãy đá vôi trắng tạo ra một nền móng vững chắc chịu đựng trọng lượng đồ sộ của công trình và cũng là nguồn nguyên liệu thừa thãi trong việc xây dựng các phần lõi rắn chắc.
Kế đến là chuẩn bị địa điểm xây dựng. Công việc bắt đầu bằng việc phác thảo sơ bộ, san lấp mặt bằng, hình thành một chân đứng chắc chắn, chẳng hạn như san lấp theo góc vuông và dây dọi, nhưng có thể đạt đến mức độ chính xác đáng ngạc nhiên: mặt bằng lối đi quanh kim tự tháp Khufu chỉ dao động 2 cm (khoảng 0,78 inch). Mặc dù khu vực quanh vùng cạnh đáy kim tự tháp được giảm xuống để tạo ra một nền móng bằng phẳng, nhưng đá tự nhiên bên trong thông số vẫn giữ nguyên để hình thành một phần lõi rắn trong công trình xây dựng bằng đá ở lớp phía dưới.
Khi chuẩn bị xong địa điểm, các nhà khảo sát bắt đầu bố trí một góc vuông chính xác để làm cạnh đáy kim tự tháp. Mỗi kim tự tháp được sắp thẳng hàng sao cho các cạnh hướng về bốn phương chính. Đầu tiên, hoặc là cạnh hướng Đông hay cạnh hướng Tây được sắp thẳng hàng với hướng Bắc bằng cách quan sát các vì sao ở đường chân trời. Thêm một lần nữa, những người thợ xây Ai Cập rất chính xác: các cạnh của kim tự tháp lớn chỉ lệch khỏi hướng chính Bắc trung bình khoảng 3 phút trong một độ. Khi một cạnh được sắp thẳng hàng, các cạnh khác được xây dựng căn cứ theo cạnh vừa sắp thẳng hàng về mặt hình học và được đánh dấu trên lối đi.
Trong những năm gần đây, có nhiều nỗ lực có ý nghĩa trong việc nghiên cứu mặt bằng bố cục theo đường chéo của ba kim tự tháp quan trọng Giza. Điều không chắc chắn rằng, có bất cứ quy hoạch tổng thể cơ bản nào trong việc xây dựng, vì các kim tự tháp xây dựng ở những thời gian khác nhau và dự án riêng biệt. Vả lại, các vùng đất bao quanh kim tự tháp không liên kết với nhau như người ta vẫn tưởng đã có quy hoạch tổng thể. Mặt bằng bố cục theo đường chéo góc là kết quả trực tiếp trong tiến trình xây dựng, các kim tự tháp được gióng thẳng hàng theo hướng chính Bắc, vì thế mỗi kim tự tháp được xây dựng chếch theo rìa cao nguyên và bị công trình có trước cản lại nhằm giữ cho ngay hàng, không cản tầm quan sát các ngôi sao phương Bắc để gióng hàng cho chính xác.
Khai thác, vận chuyển đá
Đá tảng được dùng làm lõi trong tháp.
Đá tảng sử dụng làm lõi trong Kim tự tháp lớn được khai thác từ mỏ đá nằm ở phía Nam kim tự tháp, cũng cùng phương pháp áp dụng để đào đường hào quanh tượng Nhân sư. Thế nhưng, những người thợ xây xác định chất lượng đá vôi trắng ở địa phương quá kém đến mức không thể làm lớp vỏ bọc ngoài, vì thế phải vận chuyển đá vôi trắng mịn vượt sống ở Tura đến cảng nằm ở ven cao nguyên. Bình quân mỗi tảng đá sử dụng trong kim tự tháp cân nặng 2,5 tấn, mặc dù người ta đã làm giảm kích thước hướng về phần đỉnh của tảng đá. Ngoài ra, đá granite được vận chuyển từ Aswan, cách địa điểm xây dựng 935 km (580 dặm) về phía Nam. Để gióng thẳng hàng với phòng chôn cất và tạo ra các nút chặn không thể xâm nhập vào các hành lang bên trong để làm nản chí những tên ăn trộm mộ. Đá granite cũng được sử dụng ở lớp đá thấp nhất trong lớp vỏ bọc kim tự tháp Khafre, và ít nhất có trong 16 lớp đá dưới đáy kim tự tháp Menkaure.
Khi đến cảng, các tảng đá được chất lên các thanh trượt bằng gỗ, kéo bằng dây thừng đến cạnh đáy kim tự tháp. Số lượng các toán nhân công kéo một tảng đá thay đổi tùy theo trọng lượng của tảng đá. Một trong những tuyến đường vận chuyển dẫn đến kim tự tháp thuộc thời trung vương triều nằm ở Lisht đã được khai quật. Người ta phát hiện có nhiều thanh gỗ phẳng đặt trên đường lăn gỗ nằm trên lớp đất bùn cứng: một con đường như thế sẽ giảm lực ma sát đáng kể và tăng khối lượng chất hàng lên các thanh trượt.
Trái với suy nghĩ của nhiều người, các kim tự tháp không phải do nô lệ, mà do lao dộng đến tuổi đi lính, tham dự. Ít nhất một số trong lực lượng lao động này thường trực, nhưng phần nhiều là lao động thời vụ: có lẽ mùa hè số nhân công tập trung đông nhát vì lũ sông Nile hàng năm cản trở việc thi công. Ngoài những người trực tiếp xây dựng kim tự tháp, còn có một hệ thống cung ứng khổng lồ khác để tiếp lương thực cho công nhân. Theo các hướng tính gần đây, kim tự tháp Khufuđã sử dụng một lực lượng 20.000-30.000 lao động, và số này làm nhà ở gần công trường.
Đường dốc và xây dựng
Một trong những khía cạnh thường gây tranh cãi trong việc xây dựng kim tự tháp là cách đưa các tảng đá lên cao trong công trình. Nhiều sơ đồ khác nhau diễn tả việc dựng, bẩy và kéo các tảng đá đã được nghiên cứu, và hiện nay hầu hết các học giả đều nhất trí rằng người ta đã sử dụng một số loại đường dốc, sau khi kim tự tháp hoàn tất, số đường dốc này được tháo dỡ. Ở Giza, mặc dù không có chứng cứ nào rõ rệt cho thấy đường dốc được bảo quản, nhưng số đá vụn và đá nhỏ rải trên mặt đường lấp đầy các khu mỏ đá ở Khufu có thể xem là phần còn lại. Chứng cứ từ những địa điểm khác đưa ra giả thuyết người ta đã sử dụng nhiều loại đường dốc khác nhau. Có thể gạt bỏ một số vì lý do thực tiễn: không đủ không gian để làm một con đường dốc thẳng dẫn đến đỉnh kim tự tháp trong khi đường dốc hình xoắn ốc có lẽ sẽ che khuất các góc bên trong kim tự tháp, dẫn đến việc sai lệch trong khi thi công.
Dường như có những giải pháp khác nhau để dựng các tảng đá trên cao được áp dụng khi việc thi công đang tiến triển. Có khoảng 96% thể tích của một kim tự tháp nằm dưới 2/3 phần đáy, trong khi thi công các lớp đá phía dưới, người ta tạo ra nhiều đường dốc nhỏ để đảm bảo mang được nhiều đá lên các tầng đang thi công. Đối với phần đỉnh kim tự tháp, số lượng đá sẽ chậm hơn vì việc đưa đá lên cao càng khó hơn, và ngay tại đỉnh, phải có nhiều cải tiếng đáng kể mới dựng và định vị được các tảng đá.
Mỗi tảng đá được tạo hình để vừa khít các tảng bên cạnh.
Mỗi tảng đá được tạo hình khi di chuyển đến vị trí sau cùng sao cho chúng vừa khít với các tảng đá bên cạnh: các tảng đá làm vỏ bọc của kim tự tháp lớn được lắp khít khao đến mức không thể để lọt lưới dao vào khe hở. Người ta dùng chất vữa thạch cao để trám bất cứ khe hở nào và cũng sử dụng như dầu bôi trơn giúp cho việc định vị các tảng đá được thuận tiện. Dường như các tảng đá đặt ở góc đều được lắp và đẽo gọt khi bắt đầu thi công mỗi lớp đá để bảo đảm mỗi lớp đá đều gióng thẳng hàng.
Người ta đo các đường chéo góc để kiểm tra công trình có vuông góc hay không, trong khi ngắm các góc để tránh bị xoắn góc.
Bố cục bên trong kim tự tháp
Kim tự tháp của Khufu mang nét độc đáo về tính phức tạp trong việc sắp xếp bên trong. Có ba phòng trong: phòng thấp nhất được tạo thành từ lớp đá bên dưới kim tự tháp trong khi hai phòng phía trên được xây dựng bên trong kim tự tháp. Phòng của nhà vua hoàn toàn nằm thẳng hàng với đá granite đó ở Aswan, bên trong có cả quan tài đá cũng bằng cùng loại đá này. Phía trên phòng của nhà vua là năm phòng giải trí, bên trên lợp mái với các dầm granite rất to, thiết kế để làm chệch trọng lượng của kim tự tháp ra khỏi trần nhà của phòng chôn cất, trong Hành lang lớn dẫn đến Phòng của nhà vua, đầu cuối cùng được đỡ bằng rầm chìa. Những thân cột hẹp khoảng 20 cm (8 inch) vuông dẫn từ hai phòng phía trên và sắp thẳng hàng dưới về chòm sao Orion, và các ngôi sao ở đường chân trời, giúp cho “linh hồn của nhà vua băng hà đi đếncác vì sao này. Giới kiến trúc sư cũng nghĩ ra khung lưới sắt công phu và cơ chế nút chặn để bịt kín các hành lang vào, nhưng sau này các tên trộm đã đào đường hầm quanh hệ thống.
Các phòng bên trong kim tự tháp Khafre và Menkaure nằm phía dưới mặt đất, được đào từ lớp đá nền. Kim tự tháp Khafre chỉ có hai phòng đơn giản với trần nhà đóng kín, trong khi kim tự tháp Menkaure có một dãy các phòng và lối đi tuy nhỏ nhưng phức tạp hơn, một trong số này có trang trí.
Hoàn tất kim tự tháp
Trong khi các cạnh của những tảng đá bao được đẽo gọt tạo hình khi lắp đặt, thì mặt ngoài của tảng đá vẫn chưa trau chuốt cho đến khi hoàn tất kim tự tháp: đá dư bảo vệ lớp bọc trong khi thi công các tầng phía trên. Công việc trau chuốt sau cùng diễn ra theo trình tự từ trên đỉnh xuống. Lúc nhân công di chuyển từ các cạnh của kim tự tháp xuống, thì các đường dốc xây dựng được tháo giàn dần. Phần lớn lớp vỏ bao bằng đá granite thuộc lớp đá phía dưới kim tự tháp Menkaure không được trau chuốt trong khi thi công đều bị hủy bỏ, vẫn còn nhìn thấy nhiều phần lồi trên các tảng đá.
Ngoài đường hầm kim tự tháp Giza, phần lớn vẫn còn nguyên vẹn cho đến thời Trung cổ, lúc ấy việc khai thác đá đều theo hệ thống. Yêu cầu cần phải có đá vôi trắng mịn cho các công trình ở Cairo, người ta nhận thấy việc di chuyển các tảng đá làm lớp vỏ từ kim tự tháp còn dễ hơn việc khai thác nguyên liệu mới nhiều. May thay, một phần nhỏ các lớp đá bao trên đỉnh kim tự tháp Khafre vẫn còn, tạo ra sự thoáng hiện trêu người so với diện mạo nguyên thủy.
Việc thám hiểm và vẽ bản đồ cao nguyên Giza đã được tiến hành từ thế kỷ 17 và hiện nay vẫn đang tiếp tục. Người ta tiến hành nhiều cuộc quan sát và khai quật tỉ mỉ nhằm tìm kiếm thông tin về cách xây dựng và con người đã tham gia xây dựng các công trình phi thường này
2 Vườn Treo Babylone
Nằm trên một nhánh của con sông River Euphrates, khoảng 50 km về phía nam Baghdad, Iraq.
Kỳ quan thế giới này được NebuchADnezzar xây dựng vào khoảng năm 605-562 TCN. Ông coi đó như một món quà dành cho người vợ, một người đã trưởng thành trong vùng đất quanh Media, khao khát cảnh núi rừng hùng vĩ.
Những đường rãnh hùng vĩ cùng các vòi phun nước theo phong cách boroque treo lơ lửng trên các mái vòm đan xen nhau, điều tuyệt diệu trong phong cách núi rừng của đất nước Iran được chuyển về vùng đồng bằng Mesopotamia ảm đạm - Vườn treo Babylon kết hợp trình độ bậc thầy về kỹ thuật với giấc mộng trữ tình. Không như Bảy kỳ quan nguyên thuỷ khác, Vườn treo là một công trình không chỉ dành cho vinh quang mà cho tình yêu - một tình nhân tuyệt vời do một quân vương xây dựng để thỏa lòng nhớ nhung người vợ ở quê nhà. Đây là một câu chuyện thật quyến rũ, nhưng có phải là ảo tưởng không? Có phải NebuchADnezzar và Amyitis đã sánh bước bên nhau tản bộ dọc theo những lối đi đầy bóng mát này? Đây có phải là nơi Alexander Đại đế đã chết trong khi cố gắng một cách tuyệt vọng để làm giảm cơn sốt rét đang hành hạ?
Mô tả thời cổ đại
Sử gia có uy tín, người đầu tiên đề cập đến vườn treo là Berossus, một người dân thành Babylon đã viết về vườn treo vào khoảng năm 270 TCN. Ông kể rằng, NebuchADnezzar (605-562 TCN) xây một cung điện mới trong 15 ngày, nền móng bằng đá hay các bãi đất có hình bậc thang tựa như phong cảnh núi rừng. Theo lời Berossus, cây cối được trồng tại đây, cái được gọi là vườn treo, nhằm làm vui lòng một vị hoàng hậu.
Câu chuyện này không có gì phải ngờ vực. Các đồng minh thời cổ đại thường được chính thức công nhận bằng một đám cưới hoàng tộc và chính điều này chắc hẳn NebuchADnezzar đã kết hôn cùng một công chúa xứ Ba Tư (Iran). Một trong số những thành tích của NebuchADnezzar, theo Berossus biết, mô tả cung điện mới của nhà vua như sau: cung điện cao như núi, một phần xây dựng bằng đá, nghe nói chỉ trong 15 ngày là hoàn tất. Không nêu cụ thể một khu vườn nào cả, nhưng các cung điện chỉ chăm sóc có một khu vườn.
Cổng vườn treo Babylon.
Người Hy Lạp về sau bổ sung thêm nhiều chi tiết. Một giả thuyết kể rằng khu vườn rộng 120 m2, chiều cao của bức tường thành cao khoảng 25 m. Khu vườn có bãi đất tạo hình bậc thang như một nhà hát, với các công trình nhỏ hòa quyện bên trong. Phần nền xây nhiều vách tường, mỗi vách rộng khoảng 7 m và cách nhau 3 m, để đỡ các dầm bằng đá. Phía trên dầm là ba lớp riêng biệt - sậy đặt trong lớp nhựa đường, hai lớp đá xây bằng gạch, và lớp vỏ ngoài cùng làm bằng chì. Đất trong khu vườn đặt ở trên cùng, nước tưới cây lấy từ các cỗ máy ngụy trang hút nước từ con sông chảy bên dưới.
Một giả thuyết thứ hai cho rằng, có đến 20 vách tường chống. Một giả thuyết thứ ba lại kể khu vườn nằm trên các mái cong dạng vòm xây bằng gạch và nhựa đường: các đinh vít kiểu Archimede nằm dọc theo cầu thang cung cấp nước. Một mô tả khác cho rằng có một công trình phụ gồm các cột bằng đá đỡ các dầm bằng gỗ: dầm làm bằng thân cây cọ. Thay vì bị mục rữa, đã mang chất bổ đến nuôi dưỡng rễ cây trồng trong khu vực treo ở phía trên, toàn bộ khuôn viên được tưới tiêu bằng một hệ thống gồm các vòi phun nước và máng dẫn thiết kế thật tài tình.
Khu vườn ở đâu?
Vì có những mô tả trái ngược nhau, một số tỏ ra ngờ vực liệu vườn treo có thật hay không. Tuy không có một đề cập đến bất cứ đặc điểm kiến trúc nào, ngoại trừ các thân cây không bị mục rữa, quả đáng ngạc nhiên. Du khách Hy Lạp chắc hẳn đã chứng kiến việc đưa cây cối lên cao, và chúng ta có thể tìm kiếm những gì còn lại trong đống đổ nát hiện tại theo cách hợp pháp. Nhưng thật không may, các cung điện ở Babylon đã bị những người háo hức tận dụng những viên gạch nung tráng lệ tàn phá hàng ngàn năm trước. Ngày nay chỉ còn lại phần nền móng mà thôi
Cổng vườn treo
Những người thám hiểm ban đầu tìm kiếm các khu vườn trong Cung điện mùa hè trên cao, diện tích khoảng 180 m2, cùng với việc kết hợp các giếng nước công phu, nhưng vẫn không đủ không gian dành cho các bãi đất hình bậc thang và cây cối. Một nhà khảo cổ đã xác định vị trí của khu vườn nằm phía trên một số mái cong dạng vòm mà ông phát hiện nằm ở Cung điện phía Nam, lại một lần nữa cũng có các giếng nước, cái mái dạng vòm còn là nền móng của một khu vực hành chánh, cũng có thể là một nhà lao.
Bất kỳ ai tìm kiếm mặt bằng tầng trệt thuộc khu vực cung điện sẽ nhận thấy các cung điện phía Bắc và phía Nam nằm bên sườn hướng Bắc và Tây, gắn với Euphrates, bằng các công trình nào trong số này cũng đều có các khu vườn tạo hình bậc thang, có lẽ gây ấn tượng nhất là công trình phụ phía Tây. Phần bao quanh này, có diện tích khoảng 190 x 80 m, với các tường ngoài rộng khoảng 20 m, làm bằng gạch đặt trong lớp nhựa đường. Có nhiều căn phòng ở đầu phía Bắc, trong khi ở đầu phía Nam có một góc hình vuông, có lẽ cầu thang đặt trong một góc. Trong công trình độc đáo này, có thể người ta đã tạo hình một khu vườn hình vuông, gần bằng với kích thước yêu cầu, với các ngôi nhà nghỉ trong mùa hè cùng một khu núi non bộ tạo hình bậc thang.
Nhưng vấn đề này chỉ được giải quyết qua những cuộc khai quật gần đây hoặc bằng một số tư liệu chưa tìm thấy từ thời vương triều Nebuchadnezzar. Cho đến lúc này, chúng ta có thể hình dung Vườn treo có các mái dạng vòm và vòi nước hoặc bằng bất cứ hình ảnh nào trong trí tưởng tượng.
3.Tượng thần Zeus ở Olympia
Nằm tại thị trân´cổ Olympia, bờ biển phía tây Hy Lạp ngày nay cách 150 km về hướng tây so với Athens.
Pheidias thể hiện bức tượng thần Zeus đang ngồi, nhưng phần đầu của tượng gần như đụng sát trần nhà đến mức có ấn tượng rằng, nếu thần Zeus đứng lên, có thể sẽ đội cả mái đền. Công trình này là một trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại.
Khoảng năm 437 tr.CN, Pheidias, vì lý do chính trị phải rời Athens để sống lưu vong. Ông đến Olympia theo yêu cầu của hội đồng xây dựng đền thờ Zeus. Trước đó, ông đã hoàn thành bức tượng bằng ngà và vàng nổi tiếng Athena ở điện Pantheon và một bức tượng nữ thần khác cũng đẹp mắt không kém, cao gần 10 m (33ft) ở Acropolis.
Nhiệm vụ của Pheidias ở Olympia là thiết kế và dựng lên một hình ảnh để sùng bái thần Zeus đặt bên trong đền Doric. Kết quả thật phi thường: ông phác thảo một bức tượng bằng ngà và vàng cao 13m (43ft) đặt trên một phần đế bằng đá cẩm thạch cao 1 m (3,3ft). Toàn bộ công trình lấp kín cả đầu phía tây của ngôi đền - một kỳ công nếu xét về nguyên liệu chế tác và diện tích mặt bằng - chỉ có thể thưởng lãm khi đứng cách xa vì những tấm bình phong có hình vẽ bao quanh phần đế che khuất tầm nhìn.
Pheidias thể hiện tư thế thần Zeus đang ngồi trên ngai vàng, phóng đại tối đa kích thước bức tượng trong không gian: nếu tượng được tạc theo tư thế đứng, có thể sẽ đạt đến chiều cao hơn 18m (59ft). Bên tay phải Zeus đang cầm tượng thần Victory có cánh biểu tượng cho chiến thắng trong các kỳ Thế vận Olympic, bên tay trái là vương trượng trang trí bằng kim loại biểu thị vị trí tối cao của Zeus trong tư cách là vua của các vị thần. Một con chim đại bàng đậu trên vương trượng, chính là biểu tượng của thần Zeus. Toàn thân tượng Zeus hoàn toàn được chế tác bằng chất liệu ngà, trong khi áo và dép của tượng được làm bằng vàng. Nhiều họa tiết động vật và hoa huệ tay tinh xảo được khắc vào y phục của bức tượng, trên phần đầu tượng trang điểm bằng vòng hoa ôliu. Khối lượng toàn thân bức tượng được đặt trên ngai vàng làm bằng gỗ mun và ngà rất công phu - một công trình khác không kém phần tráng lệ nằm bên phải bức tượng, chạm trổ các nhân vật thần thoại, phong cảnh, trang điểm thêm bằng đá quý và vàng. Bàn chân tượng đặt trên một ghế lớn để chân, phía trước ghế là một chiếc hồ nhỏ bằng đá cẩm thạch đen dùng để hứng nước dầu ôliu rưới khắp bức tượng, có lẽ đề làm cho ngà không bị rạn.
Hình ảnh những nguyên liệu xây dựng trước đây ở Olympia.
Mặc dù không có công trình nào của Pheidias còn lưu giữ cho đến nay, nhưng rõ ràng ông có khả năng thực hiện công trình điêu khắc to hơn người thật, tinh xảo, hoàn mỹ trong chất liệu ngà. Tuy nhiên, ông chưa hề, hay bất kỳ ai khác cũng thực hiện một công trình bằng chất liệu ngà với kích thước đồ sộ như thế, cho đến khi ông thực hiện tượng Athena cho điện Parthenon. Kỹ thuật không phải dễ, đòi hỏi nhiều kỹ năng trong chế tác kim loại, gỗ cũng như ngà.
Bên trong thần tượng thần Zeus ở Olympia
Có khoảng 780 m3 (27.545ft3) gỗ lấy từ địa phương để làm thân tượng, sau đó mới gắn ngà. Bên trong có lẽ cũng gần bằng chiều cao bức tượng, được làm từng bộ phận rồi ghép lại trong đền thờ. Gần như không thể di chuyển thân tượng ra vào đền như một đơn vị riêng lẻ. Gỗ tạo hình chỉ ở mức độ không đáng kể, trong khi phần cơ bắp được đổ khuôn cẩn thận bằng ngà và kim loại.
Xưởng của Pheidias nằm bên ngoài điện thờ, ở phía đông ngôi đền, chính Pheidas đã bố trí và thực hiện nhiều bộ phận của bức tượng ngay đây. Bản thân ông có lẽ đã chỉ đạo thực hiện và chịu trách nhiệm các chi tiết tinh xảo khi đổ khuôn và chạm trổ, trong khi những người khác giám sát công tác cung ứng và vận chuyển nguyên liệu. Cùng lúc, những nhà điêu khắc khác tham gia vào việc chuẩn bị nguyên liệu và lõi gỗ, cố định các tấm ngà và vàng, cũng hỗ trợ Pheidias.
Tạo dáng nguyên liệu
Người ta thường cho rằng ngà voi được cắt ra và gắn vào lõi gỗ, nhưng chi tiết trong bức tượng thần Zeus của Pheidias cho thấy hệ thống cơ bắp thể hiện rất sinh động ở phần ngực, có thể họ đã áp dụng một số kỹ thuật chế tác ngà khác tinh xảo hơn. Việc sản xuất đồ gỗ trong thời cổ đại, điều Pheidias vốn rất quen thuộc, đã giúp chúng ta lần ra manh mối. Những người làm đồ gỗ đều biết cách có được các tấm ngà mỏng và to hơn bằng việc bung hơn là cắt ngang. Không những việc bao phủ một diện tích lớn hơn bằng những tấm ngà này dễ hơn, độ dày của chúng sẽ giúp việc đổ khuôn ngà dễ hơn một khi được làm mềm. Nhiều nguồn tư liệu thời cổ ghi lại các phương pháp và vật liệu khác nhau trong việc làm mềm và tạo dáng bằng ngà, như lửa, bia, giấm và nấu với quả mandrake, có lẽ Pheidias đã áp dụng những cách này. Một khi đã làm mềm, các tấm ngà mịn sẽ hình thành ngai vàng trong khi các tấm khác ép vào các khuôn đất nung để tạo hình phần thịt. Sau đó, mỗi chi tiết ngà hoàn chỉnh được vận chuyển vào đền, lắp vào phần lõi gỗ bằng đinh tán, các tấm ngà còn ướt sẽ tự động kết dính với nhau.
Phần áo ngoài và giày của tượng được làm bằng vàng, cũng như bức tượng thần Victory trên tay phải của thần Zeus và các chi tiết khác thuộc phần ngai vàng. Người ta áp dụng nhiều kỹ thuật để chế tác chất liệu vàng. Muốn trang trí các chi tiết thuộc tấm lớn ở phần ngai vàng có lẽ phải đập mỏng để tạo dáng. Tuy nhiên, khuôn dùng để tạo hình các chi tiết khác, chẳng hạn như các con sư tử bằng vàng khối nằm ở hai bên ghế để chân, và phần xếp nếp của áo choàng bức tượng thần Zeus. Vàng tan chảy ở nhiệt độ rất cao rồi đổ vào khuôn dưới dạng chất lỏng. Đất sét nung được phát hiện trong việc gia công các chi tiết xếp nếp áo.
Vì thế toàn bộ công trình được chế tạo từng chi tiết một, cho đến khâu trau chuốt ngà và đánh bóng vàng được thực hiện sau cùng. Kết quả hình thành một kỳ quan thật tuyệt vời khiến những người cổ đại phải kinh ngạc và ghi chép cảm tưởng qua tác phẩm của Strabo, Cicero, Callimachus và Pausanias…
Đá được khám phá tại đây
Càng về cuối thế kỷ 4 sau CN, tín đồ Cơ Đốc cấm đoán tất cả mọi sự sùng bái ngoại giáo khác. Điện thờ ở Olympia không còn sử dụng và các kỳ thi Thế vận Olympic cũng không được tổ chức nữa. Tuy nhiên tượng thần Zeus ở Olympia vẫn còn sức thu hút mọi người đến mức người ta di dời bức tượng về Constantinople (Istanbul). Năm 462 sau CN, một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã tàn phá thành phố và thiêu hủy bức tượng. Bức tượng thần Zeus ở Olympia không hề có bản sao - tất cả những gì chúng ta biết được về bức tượng là qua sự mô tả trong các ghi chép thời cổ đại và bản vẽ phác ở các đồng tiền thời xưa.
4.Đền thờ nữ thần Artemiss ở Ephesus
Nằm ở thành phố cổ đại Ephesus ngày nay gần Selcuk, khoảng 50 km về hướng Nam Izmir (Smyrna) tại Thổ Nhỉ Kỳ.
Nghệ thuật Hy Lạp và sự giàu có của châu Á đã kết hợp tạo dựng nên một công trình kiến trúc thần thánh và nguy nga. Đền thờ nữ thần Artemiss nằm trong số Bảy kỳ quan bởi tính tráng lệ về kiến trúc và kích thước khác thường.
Đền thờ này lớn hơn điện Parthenon rất nhiều, đây là một trong số những ngôi đền đồ sộ nhất do người Hy Lạp cổ đại xây dựng từ trước đến nay. Tọa lạc gần Ephesus bên bờ biển Ionia thuộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, cả hai ngôi đền và thành phố đều trở nên thịnh vượng do số người hành hương đến viếng ngôi đền tráng lệ này, là nơi thờ tượng vị nữ thần huyền bí (“Nữ thần đi săn của người Ephesia”), thường được đồng nhất với vị nữ thần Hy Lạp Artemis, trong thực tế được xem như là vị thần của người Anatolia thời cổ đại.
Đền thờ nữ thần Artemis không những là một trong số những ngôi đền Hy Lạp đồ sộ nhất, mà còn là một trong những công trình được xây dựng toàn bằng đá cẩm thạch lâu đời nhất. Đền được xây dựng ở địa điểm gồm các ngôi đền xây dựng đầu tiên vào khoảng năm 550 TCN với sự giúp đỡ tài chính của Croesus, một vị vua nổi tiếng giàu có thuộc vương quốc Lydia lân cận. Thế nhưng, vào năm 356 TCN, công trình kiến trúc nguy nga này bị một kẻ mắc chứng cuồng nhằm muốn tên tuổi của mình bất tử, đã phóng hỏa thiêu huỷ. Trong vòng vài thập niên sau, người ta dựng tại địa điểm cũ ngôi đền mới, theo hình dáng của ngôi đền ban đầu.
Ngôi đền mới trùng tu vẫn còn tồn tại dưới thời kỳ La Mã, khi ấy nhà văn La Mã đã ngạc nhiên trước kích thước và việc xây dựng ngôi đền. Ba cửa sổ lớn được trổ thẳng xuyên qua mái, cửa sổ ở giữa tạo ra một khoang hở giúp những người viếng đền có thể nhìn thấy vị nữ thần Artemis trên bàn thờ. Chính bàn thờ cũng là một công trình có dãy cột thật tráng lệ ở bên phía, đặt ở phía trước ngôi đền.
Đền thờ nữ thần Artemiss.
Đền nguyên thuỷ có kích thước 55 x 110 m tính ở bậc thang phía trên, ba phía là một dãy cột gồm hai hàng bao quanh, một chiếc cổng có mái che với hàng cột sâu phía trước lối ra vào. Khi ngôi đền được trùng tu vào thế kỷ 4 TCN, thì nền móng của một số kiến trúc thượng tầng của ngôi đền nguyên thuỷ được tận dụng, nhưng ngày nay chỉ cao khỏi mặt đất khoảng 2m, tấm móng được một hàng cầu thang bao quanh. Ba mươi sáu cột nằm ở phía trước lối ra vào đều trang trí bằng các tác phẩm chạm nổi, một đặc điểm khác thường đối với các ngôi đền Hy Lạp, chính bản thân các cột đều chạm trổ từ 40 đến 48 đường rãnh máng khoét sâu ở thân cột. Quanh ngôi đền phía trên các cây cột, có một trụ ngạch, trong khi các máng xối đều chạm hình đầu sư tử. Với khoảng cách giữa các cột không có trụ đỡ thường vượt quá 6,5 m, bao gồm các tảng đá dài đến 8,75 m, công trình đã buộc những người thợ xây thể hiện khả năng cao nhất của mình.
Tượng nử thần Artemiss
Tục truyền rằng công trình này do kiến trúc sư Chersiphron đảm nhận, sau này ông nghĩ đến chuyện tự vẫn khi đối mặt trước vấn đề nâng cao rầm đỡ ở lối ra vào. Chắc chắn những người thợ xây Hy Lạp đã sử dụng cần cẩu vào năm 515 TCN, nhưng phần lớn các tảng đá trong đền thờ nữ thần Artemiss đều khá nặng. Việc đưa số đá tảng này lên cao không phải là vấn đề duy nhất - Chersiphron phải đảm bảo rằng những tảng đá dùng để trang trí đỉnh cột phải đặt đúng vị trí. Muốn thế, ông đã xây dựng một đường dốc làm bằng các bao cát, cao hơn vị trí muốn lắp đặt một ít. Khi kéo tảng đá lên đường dốc, người ta tháo phần đáy bao để cát chảy ra sao cho mặt phẳng của đường dốc lún xuống dần cho đến khi tảng đá được đặt đúng vị trí yêu cầu.
Đá cẩm thạch dùng trong công trình được lấy từ mỏ đá cách công trường 11 km (7 dặm), khoảng cách khá xa khiến việc vận chuyển những tảng đá nặng đến 40 tấn trở thành một thử thách. Lẽ đương nhiên xe bò không để đảm đương nổi trọng lượng này, nhưng Chersiphron nghĩ ra một phương pháp thay thế thật tài tình: khối đá hình lăng trụ dùng để lắp cột được các chốt ở tâm giữ cố định trong một khung bằng gỗ sao cho chúng có thể quay vòng như những chiếc xe lu khổng lồ chuyển động bằng sức kéo nhiều con bò. Ý tưởng này do con trai của Chersiphron là Metagenes đề xuất, sao cho các tảng đá trang trí đầu cột vuông góc có thể di chuyển theo cách tương tự, mỗi đầu cột đều bọc trong bánh xe bằng gỗ khổng lồ.
Vì thế chính cái khó đã ló cái khôn, kích thước đáng kinh ngạc của ngôi đền và các tảng đá sử dụng trong công trình đòi hỏi những kỹ thuật mới trong vận chuyển và dựng đá đứng thẳng. Trong khi phương pháp của Chersiphron chưa từng áp dụng ở nơi khác, thì ngôi đền đồ sộ này quả thật là chứng cứ cho sự khéo léo, tài tình của ông. Nhưng tiếc thay, chỉ một phần rất ít của công trình còn tồn tại cho đến nay, người ta chỉ bảo quản được bục đài vòng của đền vừa khai quật và một cột đền duy nhất được gia cố bằng bê tông.
5 Lăng Halicarnassus
Ở thành phố Bodrum (f.k.a. Halicarnassus) tại biển Aegean , Tây nam Thổ Nhỉ Kỳ .
Ngôi mộ cổ khổng lồ với diện tích hơn 1.000 m2 do Hoàng hậu Artimise xây dựng cho phu quân Mausolos - Vua xứ Caria. Nó nằm bên bờ biển tây nam Thổ Nhĩ Kỳ và nhằm cất giữ những gì còn lại của Mausolus.
Ngôi mộ đồ sộ của ông hoàn tất sau khi ông mất năm 353 TCN. Đây đúng nghĩa là một công trình tưởng niệm, vượt xa tất cả các ngôi mộ khác cùng thời về kích thước và tầm vóc: chiều cao gần 45 m, chiếm một diện tích hơn 1.216 m2. Mặc dù hiện nay những gì còn lại của ngôi mộ không nhiều, nhưng người ta biết được ít nhiều về công trình này qua các ghi chép lịch sử và khai quật khảo cổ.
Lăng Halicarnassus.
Lăng hầu như vuông góc theo sơ đồ, các cạnh hướng Đông và Tây dài hơn các cạnh hướng Bắc và Nam một ít. Lăng nằm trên một bậc đài vòng có kích thước 38x32 m, phía trên bậc đài vòng là dãy cột Ionic bao quanh tất cả bốn mặt, một kim tự tháp gồm 24 bậc thang nằm trên đỉnh của toàn bộ công trình. Đá vôi trắng và đá cẩm thạch trắng dùng để ốp mặt tiền, trong khi phần lõi làm bằng đá núi lửa màu xanh lục. Một hệ thống gồm các ống thoát nước và hành lang ngầm giúp cho công trình luôn khô ráo và vững chãi. Quanh lăng là tường thành bao bọc chiếm một diện tích 2,5 hécta, có cổng vào ở hướng Đông.
Năm trong số những điêu khắc gia cừ khôi nhất của Hy Lạp được trưng dụng để trang trí Lăng: Scopas, Bryaxis, Leochares, Timotheos và Praxiteles. Bốn người, mỗi người chịu trách nhiệm trang trí một mặt của lăng, trong khi người thứ năm đảm trách việc thực hiện hiện tượng chiếc xe ngựa tứ mã kéo khổng lồ đặt trên đỉnh kim tự tháp bậc thang. Hai trụ ngạch chạy liên tục quanh các mặt của lăng mộ, một mô tả trận đấu giữa người Lapith và Centaur, trụ còn lại mô tả trận chiến giữa người Hy Lạp và Amazon, trong khi các hình người và sư tử không có giá đỡ, có kích thước bằng người thật hay to hơn, đặt trên các bệ bằng đá vôi màu xanh da trời.
Chúng ta không hề biết gì về lăng cho đến khi nó bị sụp đổ (có lẽ do động đất), thậm chí một số quả quyết lăng chưa hề xây dựng hoàn tất. Tất cả thông tin về địa điểm lăng đã bị thất lạc vào thế kỷ 15 khi các kỵ sĩ của Thánh John tràn vào, đốt đá cẩm thạch để làm vữa vôi và dùng đá công trình để gia cố thành trì của họ ở Bodrum. Chính họ là những người đặt chân đến phòng để thi hài Mausolus nằm dưới đáy của công trình vào năm 1522, thật không may, tài sản trong lăng bị cướp mất, một ít chi tiết được ghi lại.
Xây dựng lăng
Ngôi mộ đạt đến chiều cao 45 m, trong đó các dãy cột chiếm gần bằng 1/3 tổng chiều cao lăng. Chiều cao của phần kim tự tháp có thể là 6,8 m, trong khi nhóm tượng xe ngựa được giả định có chiều cao ấn tượng 6 m - gấp khoảng hai lần kích thước thật. Như vậy phần chiều cao còn lại cho bục đài vòng sẽ là 20,2 m.
Chỉ riêng bục đài vòng cũng cần đến khoảng 24.563 m3đá phải khai thác, đẽo gọt, vận chuyển và đặt đúng vị trí, riêng phần nham thạch màu xanh lục sử dụng trong nội thất được khai thác tại chỗ trong khi phân tích cho thấy các loại đá khác đến từ những nguồn khác nhau ở rất xa. Đá cẩm thạch làm trụ ngạch Amazon lấy từ đảo Kos, trong khi trụ ngạch của xe ngựa có lẽ loại đá cẩm thạch Phrygy nằm sâu trong nội địa vùng Afyon. Việc thu nhập nguyên liệu từ nhiều địa điểm khác nhau cho thấy Mausolus giữ vai trò quan trọng về uy thế chính trị trong vùng.
Các cuộc khai quật được tiến hành vào thế kỷ 19, trong thập niên 1960 và 1970 đã khôi phục sơ đồ mặt bằng của Lăng và cho thấy Lăng được xây dựng bằng cách nào. Người ta chọn một nghĩa địa làm địa điểm, san lấp mặt bằng, khoét và lấp đầy các hành lang, phòng ốc để tạo ra một gối tựa rắn. Các tảng đá nham thạch ở địa phương dài đến cả mét để làm phần móng và lõi của bục đài vòng. Dùng các que kim loại để kẹp chặt các tảng đá kề nhau để kết khối và đỡ tường, đồng thời được gia cố thêm bằng các chốt kim loại liên kết các khối đá ở các lớp đá khác nhau. Dãy cột và kim tự tháp cũng được lên kế hoạch cùng lúc, mỗi cột trong dáy cột cách nhau 3 m sao cho có tổng cộng 36 cột Ionic. Phía trên cột, các kẹp kim loại lại dùng để liên kết các khối đá trang trí đầu cột.
Chứng cứ khảo cổ không nhiều và sự mơ hồ, khó hiểu trong các ghi chép thời cổ đại về Lăng thật khó xác định bằng cách nào người ta đã đưa đá lên cao trong thi công. Phải dùng cầu để định vị các khúc đá ngắn lấp cột phía trên bục đài vòng để tính kích thước và độ cao dựng thẳng đá. Một khi đã đúng vị trí, dùng các chốt gỗ cố định các khúc đá ngắn lắp cột để liên kết và giữ chặt đá. Các khối đá ở bục đài vòng có thể được dựng thẳng theo cách tương tự, có thể bằng dây thừng buộc quanh các đầu có mấu lồi rồi sau đó đẽo gọt mấu lồi này khi đá đã đặt đúng vị trí. Việc đưa đá lên để xây dựng kim tự tháp có lẽ còn khó khăn hơn, vì khi dùng bất cứ dụng cụ nào tính độ bền theo tỷ lệ không những kích thước tảng đá, mà còn tính đến độ cao để dựng đá đứng thẳng, khoảng 32-39 m.
Việc nâng và lắp trang trí điêu khắc cũng là một vấn đề, nếu không nói là khó khăn hơn. Nhấc bổng một tảng đá thường sợ đá bị gãy, rạn và khi đưa các tác phẩm điêu khắc tinh xảo, các chi rất dễ gãy. Đối với các tác phẩm to bằng hay to hơn kích thước người thật, công việc đòi hỏi phải hoạch định vô cùng cẩn trọng.
Tác phẩm điêu khắc trong lăng.
Lăng chính là kho tàng đầy ắp các tác phẩm trang hoàng, nhất là tác phẩm điêu khắc không có giá đỡ, khiến Lăng được liệt vào hạng Bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Vô số mảnh vụn còn sót lại, một số mảnh vụn có dấu vết của màu sơn: đỏ-nâu sơn trên tóc, râu: đỏ, xanh da trời và tía trên trang phục và áo choàng. Tượng sư tử bao quanh gờ mái cũng được sơn màu nâu vàng nhạt. Thế nhưng tất cả tác phẩm điêu khắc không giá đỡ được lắp đặt như thế nào vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Một số cho rằng muốn lắp dễ phải tạo bậc thang ở bục đài vòng, tạo ra các gỡ để tựa các bức tượng. Số khác căn cứ vào tư liệu ghi chép thời cổ cho rằng không cần sử dụng bục đài vòng hình bậc thang, nhưng cuối cùng người cổ đại vẫn thành công trong việc lắp đặt các tượng. Ngay cả số người tán thành giải pháp dùng bục đài vòng hình bậc thang cũng không nhất trí về số lượng các bậc.
Chúng ta căn cứ vào chính các phòng trong lăng mộ: một căn phòng hình chữ nhật xây dựng trong phần đáy của công trình, có nhiều bậc thang dẫn xuống, gần đó là các cửa ra vào bằng đá cẩm thạch đồ sộ. Chỉ có một khối đá hình vuông to lớn nằm bên trong lối vào, có nhiều lỗ và khe để đóng chốt, lúc đầu dùng để định vị tảng đá. Trong phòng này, vào năm 1522, các kỵ sĩ của Thánh John bắt gặp một bình đựng hài cốt hay quan tài. Thế nhưng, khi họ trở lại vào ngày hôm sau, quan tài đã bị vỡ ra, vương vãi các vật nhỏ hình tròn và mảnh vụn từ trang phục bằng vàng. Trong các cuộc khai quật gần đây, người ta chỉ tìm thấy một ít vật nhỏ hình tròn như thế. Đây là tất cả những gì chúng ta biết được về cách mai táng ban đầu.
Tại sao một công trình tưởng niệm công phu như thế lại xây dựng dành cho một nhà cai trị xứ Caria? Môn khoa học chính trị có thể đưa ra lời đáp. Mausolus ham muốn thành lập một đế quốc Caria, thống nhất người Hy Lạp và các dân tộc khác, ngôi mộ của ông biểu tượng hóa tham vọng thống nhất bằng việc kết hợp các đặc điểm kiến trúc Hy Lạp, Lycia và Ai Cập. Một trong số những nét mới của Lăng là gom kiến trúc và tác phẩm điêu khắc lại thành một mối quan hệ mới, tạo thế quân bình giữa hai thế lực có tiếng vang trong nhiều giai đoạn tiếp theo sau. Mausolus cũng xây dựng một loại tính bất tử qua lăng mộ, mô phỏng nhiều (trên phạm vi nhỏ) các công trình tưởng niệm Hy-La, và cung cấp từ “mausoleum” cho chúng ta và hiện nay chúng ta vẫn còn dùng để gọi các công trình lăng mộ đồ sộ.
6.Tượng người khổng lồ thành Rhodes
Được xây dựng và đặt tại lôî´ vao`bến cảng đảo Mediterranean của thành Rhodes tại Hy Lạp
Trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, có lẽ chúng ta biết về tượng người khổng lồ thành Rhodes ít nhất. Không hề có nhân chứng nào kể lại bức tượng có hình thù ra sao khi nó còn hiện hữu, và khác với nhiều bức tượng cổ điển khác, không hề có bản sao thứ hai.
Ngay cả địa điểm chính xác của bức tượng vẫn còn tranh cãi. Có phải tượng đặt ngay lối ra vào hải cảng? Theo thông lệ người ta thường dựng tượng trên bục đài vòng ngay hải cảng nhằm tạo ấn tượng đối với giới thuỷ thủ vào cảng, nhưng số khác lại lập luận bức tượng khổng lồ đặt ở cách mép nước rất xa, ngay trên đỉnh Street of Knights, nơi một ngôi trường Thổ Nhĩ Kỳ tọa lạc hiện nay. Tuy nhiên, chúng ta biết chính xác Bức tượng khổng lồ được tạc bằng chất liệu gì, nhờ vào nhà văn cổ đại Philo thành Byzantium. Quả thật, đây chính là một thành tựu kỹ thuật trong việc đúc khuôn một tượng đồng khổng lồ có chiều cao hơn 33 m - các ngón tay của tượng thậm chí còn lớn cả hầu hết các pho tượng khác cùng thời - vì thế tượng được liệt vào hạng Bảy kỳ quan.
Về bản chất, Bức tượng khổng lồ là công trình ngỏ lời tạ ơn thần mặt trời Helios - vị thần bảo hộ thành Rhodes - đã có công giúp thành phố thoát khỏi cuộc bao vây của Demetrius “Poliorcetes”, vua Syria, năm 305 trước Công Nguyên. Tên ông ta có nghĩa là “Người bao vây”, nhưng ở thành Rhodes ông ta gặp phải địch thủ. Khi rút quân khỏi hòn đảo, ông từ bỏ các phương tiện bao vây của mình, sau đó người dân thành Rhodes đem bán ngay, lấy tiền xây dựng công trình.
Công trình giao phó cho Chares, có lẽ là người thiết kế pho tượng, phần đầu tượng đội vầng hào quang, cùng các tia lửa nhọn tỏa ra, mái tóc dợn sóng như thể đang bay trong gió. Đây chính là những điểm đặc trưng của thần mặt trời. Tượng người khổng lồ có lẽ có khuôn mặt tròn trĩnh, gần như dịu dàng, đôi môi hé mở, trong các mô tả về thần mặt trời Helios, tìm thấy trên các đồng tiền trong thời kỳ này. Lấp lánh dưới ánh mặt trời, vươn cao hơn các dinh thự trong thành phố, bức tượng không thể không tạo được ấn tượng đối với cư dân thành Rhodes lẫn du khách nước ngoài.
Xây dựng tượng Người khổng lồ
Toàn cảnh thành Rhodes.
Chỉ riêng kích thước của tượng Người khổng lồ, cũng không thể cho rằng thân tượng và tứ chi được đúc riêng biệt rồi lắp vào nhau sau đó. Philo thuật rằng, thay vì Chares đổ khuôn tượng tại chỗ, ông lại đúc từng phần. Công trình khởi công năm 294 trước Công Nguyên, bắt đầu là bàn chân, được đổ khuôn trước tiên, kế đến đặt vào vị trí trên nền làm bằng đá cẩm thạch trắng. Giai đoạn tiếp theo - hai cẳng chân - được đổ khuôn cho liên lạc với bàn chân, cũng sử dụng các khuôn được chuẩn bị và điêu khắc cẩn thận. Thế là tượng Người khổng lồ đứng được, đúc khuôn từ bộ phận này đến bộ phậnkhác. Bức tượng rỗng ruột, bên trong được gia cố bằng khung sắt với các xà ngang theo phương nằm ngang cùng nhiều tảng đá có trọng lượng lớn.
Khi công trình tiếp tục về phía trên, người ta đắp cao thêm ụ đất, tạo ra một giàn giáo cho những người thợ thủ công có chỗ đứng để làm khuôn, đúc bộ phận kế tiếp. Thực ra Chares chưa hề thấy công trình nào như thế cho đến phần cuối cùng của bức tượng được đặt ngay vào vị trí, và chỉ khi ụ đất đắp được thu dọn thì người ta mới chiêm ngưỡng được toàn bộ tượng Người khổng lồ cùng với tất cả ánh hào quang.
Khối lượng đồng cần để đúc tượng có lẽ đã ngốn hết kho dự trữ đồng và thiếc trên đảo, nhưng Rhodes là một trung tâm thương mại quan trọng, các nguồn tiếp tế có lẽ nhập khẩu bằng đường biển. Thật khó có đủ lượng đồng theo yêu cầu, và điều này cũng là lý do giải thích tại sao tượng Người khổng lồ chỉ đúc được từ 2 đến 2,5 m mỗi năm. Một lý do khác là thời gian cần thiết để làm tan chảy và đúc đồng, xây dựng và tôn cao ụ đất đắp, cũng như xây dựng bức tượng.
Muốn một pho tượng cao như thế chịu đựng các lực tác động của gió và thời tiết, nhất thiết phải có hình trụ. Hai tay phải buông thõng kẹp sát vào thân hay giơ thẳng về phía trên, do trọng lượng và kích thước như thế sẽ không vững chãi khi được tạo hình ở các tư thế khác. Chúng ta cũng gạt bỏ ý kiến cho rằng tượng đứng giang chân ở ngay lối vào cảng, vì ở tư thế này, phải có khoảng cách giữa hai chân hơn 120 m, quan điểm này đơn thuần là sự tưởng tượng của những người hành hương trong thế kỷ 15. Thật phi lý, căn cứ vào tin đồn, thì tượng Người khổng lồ chỉ tồn tại trên thực tế chưa được 50 năm, tượng hoàn công năm 282 trước Công Nguyên, bị động đất làm sụp đổ năm 226 trước Công Nguyên. Chính đống đổ nát trở thành một địa điểm du lịch, cho đến khi được một thương gia người Syria dùng xe bò chở đi vào thế kỷ 7 sau Công Nguyên.
7. Ngọn hải đăng Alexandria
Trên hòn đảo cổ đại thuộc Pharos , thuộc quần thể đế chế Alexandria tại Ai cập .
Đây là một trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, nhằm hướng dẫn tàu bè vào cảng Alexandria an toàn. Người ta cho rằng phải mất 15 năm mới xây dựng xong hải đăng và tiêu tốn một số tiền khổng lồ 800 talents (đơn vị tiền cổ xưa).
Hải đăng Alexandria.
Hải đăng xây dựng dưới thời vua Ptolemy I, khánh thành khoảng năm 283 TCN dưới thời vua Ptolemy II. Ngoại trừ Kim tự tháp ở Giza, hải đăng là công trình cao nhất trong thế giới cổ đại.
Hải đăng đặt ngay lối vào cảng Alexandria, ngay vị trí hiện nay là một pháo đài Arập xây dựng vào thời Trung cổ, pháo đài Qait Bey. Tháp trung tâm của pháo đài có lẽ được xây dựng trên nền móng của Hải đăng, vì thế có thể phỏng theo sơ đồ mặt bằng và kích thước của Hải đăng. Phần lớn nguyên vật liệu để xây pháo đài đều lấy từ Hải đăng. Tuy nhiên, việc tái tạo chính xác nguyên bản thật vô cùng khó khăn, mặc dù có nhiều hình ảnh Hải đăng dưới dạng biểu đồ trên các đồng tiền, đồ khảm và các mô tả thành văn thời cổ đại. Người ta cũng cho rằng ngọn tháp đổ nát ở Abusir cũng mô phỏng theo hình dáng của Hải đăng. Đây là tất cả những gì người ta biết được về Hải đăng cho đến năm 1960, khi ấy một thợ lặn Ai Cập phát hiện những tảng đá và pho tượng khổng lồ nằm dưới đáy biển quanh pháo đài Qait Bey. Người ta cho rằng những khối đá và pho tượng này thuộc về Hải đăng đổ nát, hiện được một toán bao gồm các thợ lặn và nhà khảo cổ nghiên cứu.
Xây dựng thành 3 bậc, người ta nghĩ Hải đăng phải có chiều cao khoảng 135 m. Bậc dưới cùng theo sơ đồ hình vuông, gồm nhiều phòng cho bộ phận canh gác hải đăng thường trực, gia súc và lương thực. Lối vào được tôn cao, đi vào bằng con đường dốc bắt đầu từ phần nền bao quanh tháp. Bên trong bậc hình vuông thấp hơn là một vách tường bên trong để đỡ các phần trên của Hải đăng, đến được phần trên này bằng con đường dốc xoáy trôn ốc bên trong. Bậc ở giữa có hình bát giác, phía trên bậc này là phần hình tròn có tượng thần Zeus nổi bật.
Xây dựng Hải đăng
Chúng ta có thể nghiên cứu đôi chút về cấu trúc Hải đăng. Hải đăng xây dựng bằng đá trắng, hầu hết đều là đá vôi trắng ở địa phương chứ không phải đá cẩm thạch như mọi người thường nghĩ. Có lẽ đá granite được sử dụng ở những nơi thích hợp cần phải có loại đá chắc chắn hơn đá vôi trắng, có thể chịu đựng tải trọng lớn hơn ở phần chân tháp và phía trên ô cửa. Nhiều tảng đá hiện nay còn nằm dưới đáy biển đều là đá granite, một số tảng nặng đến 75 tấn.
Alexandria là một bộ phận trong thế giới Hy Lạp, xét theo kiểu dáng, Hải đăng có vẻ là một công trình Hy Lạp hơn là Ai Cập, mặc dù đội công tác dưới nước của Pháp xác định vị trí của rất nhiều pho tượng Ai Cập ở vùng lân cận. Các tượng Ptolemy và hoàng hậu khổng lồ đều nằm bên ngoài hải đăng.
Việc dựng những tảng đá vào đúng vị trí trong một công trình cao như thế đòi hỏi phải thật khéo léo, bằng kỹ thuật xây dựng Hy Lạp, bao gồm các cần cẩu tinh vi và thiết bị nâng, có lẽ đã được những người thợ xây áp dụng. Thế nhưng, cũng có thể phần lớn các tảng đá dùng để zây dựng tầng phía trên được đẩy lên bằng các đường dốc trôn ốc bên trong công trình.
Ngay cả vị trí ngọn lửa thắp sáng hải đăng cũng chưa xác định: có thể nằm ở trên đỉnh, bên dưới hay dọc theo tượng thần Zeus. Nhiên liệu có lẽ chất lên lưng động vật thồ, vận chuyển lên phía trên bằng đường dốc trôn ốc, sau đó kéo lên đỉnh bằng thiết bị nâng. Có thể sử dụng một số loại gương phản xạ để phóng đại và hướng ánh sáng phát ra từ ngọn lửa nhưng chưa có bằng chứng cụ thể về ý kiến này.
Pháo đài Qait Bey
Pháo đài Qait Bey.
Mặc dù phải qua nhiều lần hư hỏng và sửa chữa. Hải đăng phần lớn vẫn còn nguyên vẹn cho đến thế kỷ 14 sau CN. Một số thời điểm trước thế kỷ 12, Hải đăng bị động đất tàn phá nặng nề, tiếp đến phần móng hình vuông được gia cố, người ta xây một nhà thờ Hồi giáo trên đỉnh. Toàn bộ công trình bị sụp đổ hoàn toàn năm 1303 trong trận động đất nghiêm trọng khác, và hầu như được thay bằng pháo đài Qait Bey năm 1479.
10 Comments
Chuyện kể rằng Narcissus là một chàng trai có sắc đẹp tuyệt trần, nhưng chàng lại mắc chứng bệnh lãnh cảm và kiêu ngạo. Chàng không yêu bất cứ ai ngòai chính bản thân mình và cho rằng chỉ có mình là người duy nhất đáng yêu. Một hôm trong khi đi săn ở trong rừng chàng đã để cho Nữ thần sông núi Echo nhìn thấy. Chóang váng trước sắc đẹp của chàng, nữ thần Echo đã phải lòng chàng ngay tức khắc. Nhưng vì lãnh cảm và kiêu ngạo, Narcissus đã khước từ tình yêu của nàng. Nàng Echo buồn rầu lui về ở ẩn, sống xa lánh mọi người, dần dần nàng trở nên tiều tụy và thân thể nàng đi đến chỗ tàn tạ và chỉ còn lại một âm thanh yếu ớt như tiếng vọng (trong tiếng Hi Lạp hay tiếng anh ngày nay: Echo có nghĩa là tiếng vọng, âm thanh). |
Categories |